Sự gặp gỡ và những khoảng cách vô hình
Di chứng và hậu quả của chiến tranh ngoài những hoang tàn và đổ nát, kẻ thắng người thua, ai còn ai mất, thiết nghĩ còn một điều lớn lao hơn, đó chính là sự trống vắng và hụt hẫng trong một chừng mực nào đó hình ảnh và sự tác động của người cha đến những đứa con còn thơ dại của mình.
(Cao Quang Ánh tai Dieu Hanh Tet 2009. Photo: NgocLan)
Dân Biểu Cao Quang Ánh nói, “sự thân mật, khắng khít giữa cha con phần lớn có tử thuở nhỏ và phát triển theo năm tháng.” Nhưng do sinh ra và lớn lên trong một bối cảnh khá đặc biệt của một đất nước đang chìm trong nội chiến, nên ngay từ thửơ nhỏ anh đã rất ít có cơ hội để gần gũi và nhận sự chăm sóc trực tiếp từ bố. “Khi còn nhỏ ở Việt Nam thì ba tôi ở trong quân đội. Một năm tôi chỉ gặp ba tôi được hai, ba lần trong thời gian khoảng hai, ba tuần nên tình bố con trong tám năm đó rất giới hạn,” ông Cao nói và đồng thời cũng khẳng định, “nhưng tôi hiểu sự giới hạn đó là do hoàn cảnh ba tôi phải vào quân đội chứ không phải vì ba không thương tôi hay lo lắng cho tôi”
Hay như Phạm Xuân Quang, cũng có hoàn cảnh tương tự. Những chuyến bay nối tiếp chuyến bay đã khiến sự vắng mặt của bố trong gia đình Phạm Xuân Quang trở thành sự thường trực. Nhưng anh cũng không lấy đó làm sự thua thiệt, bởi theo anh thì “khi đó tôi ở trong cư xá không quân ở Tân Sơn Nhất, nhìn quanh tất cả các gia đình khác cũng như thế, chỉ có bóng dáng người mẹ, rất vắng hình bóng người cha.” Quang chỉ cảm thấy chút gì như ngậm ngùi khi sang Mỹ, vào trường học, nhìn những đứa bạn có bố làm huấn luyện viên cho chúng khi tham gia trong các đội basketball, nhìn chúng bạn có bố reo hò tán thưởng trước mỗi sự cố gắng của chúng thì anh cũng thầm ao ước “phải chi mình cũng có bố ở đây.”
(Quang Pham and his wife, mother and kid)
Trẻ con có bố có mẹ bên cạnh tưởng như phải là một lẽ tất yếu trong cuộc đời, thế nhưng khao khát “phải chi mình cũng có bố ở đây” không chỉ của riêng Quang Phạm mà còn là của biết bao người con khác trong thời điểm đó nghe sao mà mặn đắng. Chiến tranh và hệ quả của nó đã cướp đi những quyền thiêng liêng nhất của tuổi thơ. Ðể rồi sau một thời gian đằng đẵng của sự xa cách, ngày hội ngộ cũng không trọn vẹn như ước mơ.
Joseph Cao chia sẻ, “Ba tôi sang đến Mỹ năm 1991, nghĩa là sau 16 năm xa cách, khi đó tôi đã 24 tuổi, đang ở trong dòng tu, cho nên cũng đã không có cơ hội nối lại tình cha con như lẽ thông thường. Tôi thương ba tôi nhưng giữa hai bố con có sự ngăn cách khó nói chuyện.” Theo anh thì có lẽ “do ở tù khá lâu, nên ba tôi rất ít nói, tôi hỏi gì thì ông nói đó. Không biết có phải đó là do triệu chứng ở tù lâu năm hay không. Nhưng tôi biết là ba tôi rất hãnh diện khi tôi thắng cử. Ông có lên DC dự lễ tuyên thệ của tôi. Dù không nói gì cả, nhưng tôi biết ba tôi hãnh diện về tôi.” Ánh Cao nhắc đến cha mình trong một giọng nói trìu mến như thế.
Với Phạm Xuân Quang thì dường như vẫn còn điều gì đó rất bùi ngùi khi anh kể về ngày hội ngộ của hai cha con. “Tôi gặp lại ba tôi năm 1992, khi đó tôi 28 tuổi, đang là captain của thủy quân lục chiến Mỹ. Trong đầu tôi vẫn nhớ hình ảnh của hai cha con trong thời gian khoảng một năm rưỡi trước khi mất nước. Khi ấy ba tôi đã dành rất nhiều thời gian cho tôi và gia đình, đưa tôi đi chơi, đi câu cá. Thế nên tôi đã những tưởng rằng ngày xưa ba đi bay, giờ mình cũng đi bay; ba đi lính, mình cũng đi lính; giờ gặp lại, hai cha con cũng sẽ có nhiều điều để nói cùng nhau, đi câu với nhau… Thế nhưng sự đời không dễ dàng như vậy.”
Giữa hai cha con dường như có một khoảng cách vô hình. Biết bao câu hỏi anh muốn nhưng không thể nào dám mở lời. Anh sợ chạm đến trong ba anh một nỗi đau, một điều thầm kín gì đó mà anh không hiểu và cũng không tự lý giải được. Thêm vào đó, anh muốn ông có thời gian chữa lành những vết thương kí ức.
(Andrew Do and his kid)
Nghị Viên Andrew Ðỗ thì không phải chứng kiến cảnh chia li nhưng như anh tâm sự thì “tuy có nhiều thời giờ với ba nhưng vẫn không gắn bó gần gũi và tâm sự nhiều. Cha con tôi không thường ngồi xuống nói chuyện.” Kỷ niệm ngọt ngào nhất mà anh vẫn giữ mãi trong lòng về ba mình trong những năm tháng thơ ấu là khi anh đậu vào trung học đệ nhất cấp Võ Trường Toản. Khi ấy, ba anh đã thưởng cho anh một chuyến đi Vũng Tàu trong khoảng 4, 5 ngày. Phần thưởng đó đã để lại trong anh một ấn tượng khó phai.
Khi sang Mỹ, như Andrew Ðỗ đã nói, “Ba tôi không rành về xã hội này, tất cả mọi cái điều mới mẻ, vì thế ba tôi như những người lớn tuổi khác dường như mất đi vai trò hướng dẫn cho con cái, chỉ còn lại vai trò thương yêu chăm sóc cho cái ăn cái mặc.” Nhưng theo anh, đó chính biểu hiện của tình yêu thương mà ba anh đã dành cho các con mình.
(Van Tran and his kids)
Trong khi đó, Dân Biểu Trần Thái Văn có lẽ may mắn hơn bởi ba anh là một giáo sư dạy tiếng Anh, nên khi đến Mỹ, sự bất đồng ngôn ngữ không là vấn đề lớn, và chỉ cần như vậy, ông đã có thể hội nhập nhanh với cuộc sống, đi dạy học lại và tiếp tục làm chỗ dựa tinh thần vững chắc cho Trần Thái Văn trong suốt thời gian qua, để có thể chia sẻ với anh nhiều những vấn đề về chính trị, về cuộc sống, giúp anh tự tin và như cảm thấy sự hỗ trợ đắc lực từ phía gia đình.
Nhìn lại những suy nghĩ cũng như những gì mà Andrew Ðỗ, Joseph Cao. Quang Phạm và Văn Trần đã trải qua để cảm thấy trân trọng hơn biết bao sự nỗ lực và phấn đấu của họ, cũng là tiêu biểu cho một thế hệ tự bươn chải và vươn lên để có một vị trí nhất định như ngày hôm nay.
(Con 1 ky)

You must be logged in to post a comment.